LÝ DO, SỨ MỆNH

Nơi kết nối cộng đồng quản lý năng suất, chất lượng; Nơi chia sẻ KIẾN THỨC và KINH NGHIỆM THỰC TẾ về quản lý theo chuẩn mực quốc tế, như: ISO 9000, ISO 14000, OHSAS 18000, ISO 22000, ISO 27000, 5S, Kaizen, TQM, Lean, 6 Sigma... SỨ MỆNH: Giúp cho 10.000 DOANH NGHIỆP chuẩn hóa quy trình, vận hành tự động. Giúp 10 triệu NGƯỜI làm việc hiệu quả và THÀNH CÔNG hơn!

Monday 5 September 2011

HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG: AI LÀM CHỦ HỆ THỐNG?

Khi các hành vi làm chủ được mong đợi và nuôi dưỡng, những điều kỳ diệu sẽ đến.


Về lý thuyết, chúng ta đều hiểu rằng mọi người đều làm chủ “chất lượng”. Cũng giống như trong an toàn, mọi người đều có trách nhiệm thực hiện các biện pháp an toàn và báo cáo về những điều kiện thiếu an toàn. Tuy nhiên, vẫn có các bộ phận chuyên trách an toàn chịu trách nhiệm thiết lập các chính sách và thủ tục cũng như tiến hành các hoạt động kiểm tra định kỳ. Họ cũng tập hợp và báo cáo về các chỉ số an toàn như là tại nạn và sự cố. Thành viên của bộ phậ an toàn luôn cập nhật với những thiết bị an toàn mới nhất, những thay đổi về quy định pháp luật, so sánh với những thông lệ tốt nhất trong ngành. Những nhà quản lý xem xét các báo cáo và chỉ số này một cách nghiêm túc bởi họ chính là người chịu trách nhiệm cao nhất về một môi trường làm việc an toàn.
Điều này cũng tương tự như trong Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL). Mọi người đều có trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện những thực hành sản xuất tốt hiện hành nói chung và một cách cụ thể là tuân thủ quy trình. Bộ phận đảm bảo chất lượng chịu trách nhiệm thiết lập và đo lường hiệu lực của HTQLCL. Họ thực hiện đánh giá nội bộ đình kỳ và báo cáo các chỉ số của hệ thống chất lượng. Các phát hiện được báo cáo đến đội ngũ quản lý bởi vì họ chính là những người phải chịu trách nhiệm cuối cùng về việc đảm bảo các sản phẩm được sản xuất ra ở tình trạng được kiểm soát và phù hợp với những quy định hiện hành về thực hành sản xuất tốt.
Tuy nhiên, hãy không đề cập đến những lý luận mang tính khái quát mà xem xét rất cụ thể, vì đó dường như chính là chỗ mà HTQLCL bị phá vỡ trong thực tiễn. Điều này cần được thực hiện với khái niệm về “làm chủ” và có một người – được định danh – cho mỗi yếu tố của HTQLCL, có trách nhiệm làm chủ yếu tố cụ thể đó và thể hiện các “hành vi làm chủ” đã được quy định.
Theo chủ kiến của tác giả, việc tạo ra một môi trường nơi hành vi làm chủ được xác định và chờ đợi là một phần cực kỳ quan trọng trong chiến lượng duy trì sự tuân thủ một cách bền vững.
Vậy thế nào là những hành vi làm chủ? Chúng ta hãy cùng nhau xem xét một số ví dụ cụ thể:
Làm chủ các quy trình (hệ thống). Người làm chủ có trách nhiệm đảm bảo rằng những quy trình thuộc yếu tố của HTQLCL của mình được duy trì cập nhật với những quy định pháp luật và những thực hành tốt nhất trong ngành. Họ không chờ cho đến khi có các phản hồi tiêu cực từ các cơ quan quản lý nhà nước hoặc từ hoạt động đánh giá nội bộ mới xác định được vấn đề hoặc có động lực để cải tiến hệ thống.
Làm chủ quá trình áp dụng. Người làm chủ chịu trách nhiệm đảm bảo rằng những yếu tố của HTQLCL được triển khai. Vì lợi ích tốt nhất của mình, người làm chủ cần biết rằng tất cả các đối tượng nhân viên cần được đào tạo về quy trình cụ thể đã được xác định, và rằng nội dung của quy trình đã được đưa vào trong chương trình hướng dẫn công việc của nhân viên. Ví dụ, người làm chủ quy trình xử lý khiếu nại cầm đảm bảo rằng mọi nhân viên có khả năng sẽ tiếp nhận một khiếu nại về sản phẩm đã được đào tạo. Ngoài ra, cũng không phải là điều bất thường nếu người làm chủ quy trình trực tiếp thực hiện đào tạo với vai trò là chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Thực tế là, những người làm chủ các quy trình cần được được xác định là một đối tượng cho chương trình đào tạo “Đào tạo giảng viên”.
Làm chủ các chỉ số đánh giá hoạt động. Người làm chủ phải có trách nhiệm xác định các chỉ số đánh giá hoạt động tốt nhất có thể cho việc thể hiện mức độ mà hệ thống được quản lý, cũng như các vấn đề mà hệ thống phát hiện. Người làm chủ sẽ làm người đầu tiên phát hiện ra các xu hướng xấu và báo cáo đến cấp quản lý. Người làm chủ cũng là người trình bày các chỉ số hệ thống đến hoạt động xem xét của lãnh đạo.
Làm chủ các khuyến nghị. Người làm chủ chịu trách nhiệm tìm ra giải pháp cho vấn đề liên quan thông qua việc tham vấn những người sử dụng để biết được những khó khăn trong áp dụng. Khi trình bày các chỉ số hoạt động trong xem xét của lãnh đạo,  người làm chủ đồng thời đề xuất các khuyến nghị. Trong nhiều trường hợp, không nhất thiết phải chờ sự chấp thuận của cấp quản lý để triển khai các giải pháp. Ví dụ, người làm chủ quá trình bảo dưỡng phòng ngừa sẽ là người đầu tiên phát hiện ra xu hướng sự cố, nhưng phải cùng với giám đốc sản xuất để xác định một lịch bảo dưỡng phù hợp với lịch sản xuất. Khi đó họ có thể cứ triển khai và thông báo đến quản lý cấp trên.
Làm chủ tri thức. Người làm chủ là chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Công ty luôn hỗ trợ việc đào tạo liên tục cho người làm chủ để đảm bảo rằng những người này luôn được cập nhật với phát triển mới nhất trong lĩnh vực của mình. Người làm chủ sẽ chủ động tìm kiếm các cơ hôij đào tạo. Khi công ty cắt giảm ngân sách đào tạo, họ thường thuộc đối tượng ngoại lệ không nằm trong phần ngân sách bị cắt giảm. Người làm chủ chia sẻ tri thực để không ngừng nâng cao mức năng lực chung. Họ là người phải trình bày hệ thống giải quyết vấn đề cũng như trả lời các câu hỏi trong các cuộc thanh/kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.
“Làm chủ” không có nghĩa là tách riêng hay tự chủ. Tuy nhiên, trong thế giới quản trị doanh nghiệp và quá trình ra quyết định dựa trên hoạt động nhóm và đồng thuận, “làm chủ” và chịu trách nhiệm cá nhân có xu hướng bị mất đi hoặc hoàn toàn mờ nhạt.
Hãy thử hình dung sức mạnh của tổ chức khi các hành vi làm chủ được trông đợi và nuôi dưỡng trong một địa điểm sản xuất cũng như trong toàn tổ chức. Hãy thử hình dung cơ chế cho cải tiến liên tục tại một địa điểm sản xuất và trong toàn tổ chức có thể cho người làm chủ không gian để thúc đẩy các thực hành tốt nhất cho việc tuân thủ.
Hãy liệt kê các yếu tố trong HTQLCL của bạn rồi đưa tên của những người làm chủ vào đó. Lập và triển khai một kế hoạch chiến lược để hỗ trợ và nâng cao các hành vi làm chủ. Khi đó bạn sẽ chứng kiến những điều kỳ diệu sẽ đến.  
Theo QA Pharm

Thursday 18 August 2011

Quy định kiểm tra, chứng nhận chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp & PTNT, để thống nhất hoạt động kiểm tra chứng nhận chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, ngày 03/08/2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 55/2011/TT-BNNPTNT kiểm tra, chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản (CL, ATTP) đối với lô hàng thủy sản và sản phẩm thủy sản dùng làm thực phẩm.  



Kể từ ngày 16/9/2011, các đối tượng phải thực hiện theo quy định tại Thông tư là: cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản có đăng ký ngành, nghề kinh doanh thực phẩm trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành của Việt Nam và tàu cá có công suất máy chính từ 50 CV trở lên,trong đó có các cơ sở có sản phẩm XK và các cơ sở có sản phẩm chỉ tiêu thụ nội địa. Lô hàng XK thuộc diện phải kiểm tra, chứng nhận nhà nước về chất lượng, an toàn thực phẩm theo quy định của Việt Nam và của nước NK.


Các Cơ sở thuộc diện được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP trong sản xuất, kinh doanh thủy sản lập 01 bộ hồ sơ đăng ký kiểm tra và gửi cho Cơ quan kiểm tra theo phân cấp để được kiểm tra và cấp Giấy chứng nhận ATTP. 
Cơ quan kiểm tra phối hợp với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký, đăng kiểm tàu cá thực hiện việc thống kê, lập danh sách các cơ sở thuộc phạm vi quản lý theo phân công, phân cấp quy định và thông báo kế hoạch kiểm tra đến các cơ sở bằng một trong các hình thức gửi trực tiếp, fax, email. 
Cũng theo Thông tư này, cơ sở bị thu hồi Giấy chứng nhận ATTP trong 09 trường hợp, trong đó có: Cơ sở đã được cấp Giấy chứng nhận ATTP nhưng có kết quả kiểm tra điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm xếp loại C sau 02 lần liên tiếp; cơ sở đang sản xuất, kinh doanh gây cản trở khi Đoàn kiểm tra thực hiện nhiệm vụ; cơ sở vi phạm quy định về kiểm soát tạp chất, vi phạm quy định về sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm, vi phạm quy định về ghi nhãn lô hàng thủy sản… 
Các lô hàng chỉ được phép xuất khẩu khi được sản xuất từ Cơ sở đã được công nhận đủ điều kiện bảo đảm ATTP, đồng thời đáp ứng các quy định về bảo đảm ATTP của các nước nhập khẩu tương ứng; được kiểm tra, cấp giấy chứng nhận CL, ATTP theo quy định của nước nhập khẩu và quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 
Đối với các lô hàng XK có yêu cầu chứng nhận kiểm dịch theo quy định hiện hành, Cơ quan kiểm tra nêu tại khoản 1 Điều 5 Thông tư này thực hiện đồng thời việc kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm và kiểm dịch.
Nội dung kiểm tra điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm của cơ sở bao gồm:
- Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và người trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh về bảo đảm an toàn thực phẩm thủy sản;
- Chương trình quản lý chất lượng;
- Thủ tục truy xuất nguồn gốc sản phẩm;
- Lấy mẫu để thẩm tra hiệu quả hoạt động tự kiểm soát về an toàn thực phẩm của cơ sở khi cần thiết (không áp dụng trong trường hợp Cơ quan kiểm tra là Ủy ban Nhân dân cấp xã). Trường hợp có lấy mẫu thẩm tra, Đoàn kiểm tra phải lập phiếu lấy mẫu kiểm nghiệm có chữ ký của trưởng đoàn kiểm tra và người đại diện có thẩm quyền của cơ sở;
Phương pháp kiểm tra, hướng dẫn đánh giá đối với các cơ sở thực hiện theo Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 14 và Phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư này. 

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 17/09/2011 và thay thế Quyết định số 117/2008/QĐ-BNN ngày 11/12/2008; Quyết định số 118/2008/QĐ-BNN ngày 11/12/2008; Thông tư số 78/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/12/2009. Hủy bỏ Điều 1, Điều 2 Thông tư số 23/2011/TT-BNNPTNT ngày 06/04/2011; hủy bỏ Điều 3, Điều 4 Thông tư số 47/2010/TT-BNNPTNT ngày 03/08/2010. 
Để được nhận MIỄN PHÍ bản đầy đủ Thông tư số 55/2011/TT-BNNPTNT, hãy gửi mail ngay tới hieuiso@gmail.com, chúng tôi sẽ gửi file thông tư này ngay cho bạn.

Ba khâu đột phá trong Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH và CN) Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiệm vụ quan trọng là góp phần cùng cả nước tạo ra lực lượng sản xuất mới, tiên tiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của phát triển kinh tế; bảo đảm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.


Ðể thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, Chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng cần xác định và chỉ ra được những khâu đột phá để tập trung các nguồn lực và giải pháp chính sách thích hợp, nhanh chóng thay đổi môi trường, thiết chế, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong hiệu quả của tổ chức, hoạt động và quản lý KH và CN, làm cho KH và CN thật sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.

Ðột phá đầu tiên trong Chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020, theo chúng tôi, chính là khâu xác định đúng những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở các ngành, các cấp, các địa phương. Cần tập trung nỗ lực và đưa ra cơ chế bảo đảm khả năng xác định trúng các nhiệm vụ, đồng thời sàng lọc, hạn chế thấp nhất những nhiệm vụ bị xác định sai, không đúng tầm. Bên cạnh một số kết quả nổi bật, hiệu quả hoạt động KH và CN chưa cao đang là một trong những tồn tại từ nhiều năm nay mà xã hội và bản thân cộng đồng KH và CN nhìn chung chưa hài lòng. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, nhưng trước hết và chủ yếu là do khâu xác định nhiệm vụ còn nhiều hạn chế và bất cập. Bản thân lãnh đạo các cấp cũng chưa quan tâm, chủ động đặt ra và đặt trúng các vấn đề thực tiễn trước mắt và trong tương lai cần thiết phải tiến hành nghiên cứu. Phần lớn các doanh nghiệp chưa quan tâm và thật sự cần đến các giải pháp KH và CN cho nên các vấn đề đặt ra cho KH và CN cũng còn chưa thường xuyên và rõ ràng. Phần đông các nhà KH và CN còn hạn chế về tư duy và nhãn quan liên ngành cho nên chủ yếu mới chỉ đề xuất các vấn đề thuộc chuyên ngành hẹp của mình và ở phạm vi tầm hiểu biết của mình, làm cho tính liên ngành của các nhiệm vụ đặt ra còn chưa rõ. Trong điều kiện như vậy, cần tạo ra cơ chế, quy trình bảo đảm xác định đúng tầm và đúng những vấn đề trọng tâm cho nghiên cứu để không lãng phí các nguồn lực, thời gian và công sức của đội ngũ các nhà KH và CN.

Ðột phá thứ hai là, cần tập trung cho các giải pháp về nhân lực và đầu tư tài chính cho KH và CN. Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi các nhiệm vụ KH và CN. Về nhân lực, cần tập trung cho một số loại nhân lực nhất định. Ðó là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn đề và nhiệm vụ KH và CN, làm các tổng công trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH và CN lớn mang tầm vóc quốc gia, các nhóm nghiên cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH và CN và đặc biệt cần nâng cấp ngay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH và CN. Ðào tạo là giải pháp về lâu dài, nhưng trước mắt có thể dùng các chính sách đặc biệt để thu hút và sử dụng kịp thời lực lượng KH và CN hiện có ở cả trong và ngoài nước. Các chính sách này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít tốn kém tiền bạc và thời gian hơn là đổi mới công tác đào tạo nhân lực mà thông thường chỉ phát huy tác dụng trong tương lai xa (ít nhất 10 đến 15 năm sau). Chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH và CN mặc dù đã được đổi mới, nhưng cho đến nay vẫn còn là khâu yếu trong hệ thống bảo đảm nguồn lực và môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Kinh phí đầu tư cho các hoạt động KH và CN cần được quản lý thống nhất, phân bổ theo cơ cấu hợp lý giữa các nhiệm vụ bảo đảm hạ tầng (đầu tư phát triển), nghiên cứu và phát triển (theo các kênh chương trình, đề tài trọng điểm cấp nhà nước và hệ thống các quỹ), và các khoản chi thường xuyên. Trong đó, ngoài việc bảo đảm đủ kinh phí hỗ trợ đổi mới công nghệ cho khu vực doanh nghiệp cũng cần đầu tư tới ngưỡng cho các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, tạo dự trữ cho các ứng dụng vào sản xuất và đời sống trong tương lai. Khắc phục những bất cập trong chế độ chi tiêu và thủ tục thanh quyết toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH và CN, tạo cơ chế minh bạch về thu nhập để các nhà khoa học có thể đủ sống và làm nghiên cứu một cách trung thực, hiệu quả.

Ðột phá thứ ba là, tập trung xây dựng và tạo cơ chế để phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH và CN, bên cạnh cơ chế chuyển đổi các tổ chức KH và CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các doanh nghiệp KH và CN sẽ là nơi gắn kết hoạt động nghiên cứu và phát triển với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc hình thành các doanh nghiệp KH và CN sẽ tạo ra một "kênh" liên kết mới cho các hoạt động KH và CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, các doanh nghiệp KH và CN thành lập mới sẽ vừa là loại hình tổ chức KH và CN mới (mang bản chất và hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp) lại vừa là loại hình doanh nghiệp mới (sản xuất, kinh doanh dựa trên tri thức và công nghệ mới). Thực chất, các doanh nghiệp KH và CN sẽ trở thành một lực lượng sản xuất mới đi tiên phong trong sản xuất các sản phẩm và dịch vụ mới, tạo ra các ngành sản xuất mới dựa trên tri thức và công nghệ mới, có khả năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cao, lợi nhuận cao, từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, tạo ra nhiều việc làm và phát triển bền vững nền kinh tế. Ðược nuôi sống và phát triển trên nền tảng của ứng dụng tri thức KH và CN, các doanh nghiệp KH và CN sẽ là một trong những nơi đặt ra nhu cầu cụ thể, thiết thực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đóng vai trò là trung tâm liên kết trong hệ thống đổi mới quốc gia, hỗ trợ cho các tổ chức KH và CN công lập nhanh chóng chuyển đổi và chuyển đổi thuận lợi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thông qua hiệu quả hoạt động và đóng góp của các doanh nghiệp KH và CN này sẽ chứng minh thuyết phục nhất cho vai trò nền tảng, động lực của tri thức KH và CN đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng. Cơ chế, chính sách đầu tư phát triển KH và CN trong giai đoạn 2011-2020 do vậy sẽ cần tập trung cho mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của các doanh nghiệp KH và CN, coi đây là khâu đột phá quan trọng trong Chiến lược phát triển KH và CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Nguồn tin: Nhân dân

Phát triển dựa vào khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại

Sau khi được Quốc hội khóa XIII tín nhiệm bầu tiếp tục giữ cương vị Người đứng đầu Chính phủ, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã có bài viết nêu nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016. Chúng tôi trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng:

THỰC HIỆN TỐT 3 KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC MÀ ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI ĐỀ RA LÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA CHÍNH PHỦ NHIỆM KỲ 2011 - 2016
Nguyễn Tấn Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ

Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu tổng quát là "Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau".
Chiến lược đề ra 5 quan điểm, 12 định hướng phát triển, hình thành một hệ thống đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... như một chỉnh thể thống nhất, bảo đảm phát triển bền vững. Để tạo tiền đề thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ này, Chiến lược xác định phải đột phá vào ba khâu yếu, hiện đang là những điểm nghẽn, cản trở sự phát triển và nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo xung lực mới có sức lan toả mạnh, giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững.

I . Xác định đúng các đột phá chiến lược - bài học từ tiến trình đổi mới

Vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, đất nước ta đứng trước mâu thuẫn lớn giữa tiềm năng và yêu cầu phát triển với thực trạng khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, các ngành sản xuất trì trệ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó quan trọng nhất là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế. Trên nền tảng đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã độc quyền kinh doanh theo kiểu bao cấp, chuyển sang vận hành cơ chế kinh tế thị trường với các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế phát triển sống động, đạt tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Sự chuyển đổi cơ chế nêu trên đã giải quyết được mâu thuẫn trong sự phát triển của đất nước và thực sự là một đột phá chiến lược. Từ đột phá có tính mở đường này, chúng ta đã thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo đà cho bước phát triển mới, cao hơn.



Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 với ba khâu đột phá: (i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; (ii) Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; (iii) Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Sau 10 năm triển khai thực hiện, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Thể chế kinh tế thị trường cơ bản được hình thành, các loại thị trường từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng nhanh, chất lượng nguồn nhân lực có bước cải thiện đáng kể. Cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, thực hiện các giao dịch.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn các hạn chế, yếu kém, đặc biệt là việc tổ chức hiện các khâu đột phá vẫn thiên về hướng tiệm tiến, chưa thực sự quyết liệt và thiếu đồng bộ, sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để. Những hạn chế, yếu kém này đang cản trở sự phát triển và để đất nước phát triển nhanh, bền vững, cần phải tập trung sức giải quyết, tháo gỡ. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 xác định ba khâu đột phá, gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; và, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

II. Tập trung giải quyết các đột phá chiến lược, tạo tiền đề tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng - Nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016

1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Yêu cầu cơ bản để thể chế kinh tế thị trường phát huy hết mặt tích cực của nó là các yếu tố của kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, các loại thị trường phát triển đồng bộ với độ minh bạch cao, được quản lý và giám sát tốt; nhờ đó, thị trường xác lập sự cân bằng động trong phân bố nguồn lực vào các ngành sản xuất và dịch vụ theo tín hiệu thị trường, bảo đảm hiệu quả kinh tế. Thiếu các điều kiện này, thị trường không thể cho tín hiệu đúng, các nguồn lực không thể dịch chuyển thuận lợi và do đó, các chủ thể kinh doanh không thể phát huy được tiềm năng và nền kinh tế không đạt được hiệu quả. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 xác định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một tiêu chí quan trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường là mức độ cạnh tranh trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Cạnh tranh làm bộc lộ khả năng của các chủ thể kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia thị trường buộc phải phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh; đồng thời, luôn tìm cách tạo lập lợi thế cạnh tranh mới nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Đây chính là triết lý tăng trưởng mới - Tăng trưởng dựa trên sức cạnh tranh.
Nhiệm vụ đặt ra trong nhiệm kỳ 2011 - 2016 là phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách để các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học công nghệ được tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt, có tính cạnh tranh cao và gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới, được quản lý và giám sát hiệu quả. Quá trình tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường theo yêu cầu trên đây phải gắn liền với việc hạn chế tối đa độc quyền kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây là hai mặt của một quá trình không thể tách rời. Phải xác định rõ những ngành nghề mà tính độc quyền còn cao để có chính sách và giải pháp phù hợp, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, loại bỏ các hình thức ưu đãi và bao cấp còn tồn tại trên thực tế; minh bạch hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chí của doanh nghiệp đăng ký trên thị trường chứng khoán. Đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp.
Trong điều kiện các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và thay đổi khó lường, độ rủi ro và tính bất định tăng lên, không thể thực hiện có hiệu quả các yêu cầu trên đây nếu không xây dựng được một hệ thống thể chế chất lượng cao. Muốn vậy, phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung: thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng quản trị công - một trong những điểm yếu trong quản lý ở nước ta. Phải nâng cao tính minh bạch và khả năng dự đoán của chính sách để vừa giảm thiểu sự bất định, độ rủi ro đối với nhà đầu tư, vừa tránh đầu cơ, ngăn chặn tham nhũng và giảm các chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách và thể chế; đề cao vai trò phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và đánh giá hiệu quả thực thi.
Cần thay đổi tư duy và cách tiếp cận khi xác định vai trò của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang nhà nước kiến tạo phát triển. Trong nhà nước kiến tạo phát triển, chức năng của nhà nước là xây dựng quy hoạch phát triển theo một chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đúng đắn; tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ XI xác định tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là trọng tâm trong khâu đột phá về thể chế.
Trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải đặc biệt quan tâm đến bản chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế mà chúng ta xây dựng. Cần có sự nhận thức đúng rằng thị trường hoạt động theo quy luật của nó, thị trường có những mặt tiêu cực và tự nó không bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển. Chức năng này phải là của Nhà nước. Nhà nước bằng quy hoạch, kế hoạch, các chính sách và công cụ điều tiết, hướng các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực và các vùng miền, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Trong 5 năm tới, phải đầu tư cao hơn cho nông nghiệp nông thôn, triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, coi trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực để phát triển kinh tế. Tập trung hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng rộng mở và hiệu quả, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.

2. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Chúng ta đang sống trong một thời đại với ba đặc điểm kinh tế lớn chi phối sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là: (i) Khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, rất mạnh, hơn bất kỳ một thời đại nào trước đó. Chính sự phát triển này tạo ra làn sóng công nghiệp hóa lần thứ ba và hình thành nền kinh tế tri thức; (ii) Toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều, thúc đẩy sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu; cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng quyết liệt và mỗi quốc gia phải giành cho được ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó; (iii) Tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được, đòi hỏi con người phải tìm kiếm các dạng nguyên liệu, năng lượng mới, bảo đảm phát triển bền vững.
Những đặc điểm nêu trên làm nổi bật vai trò ngày càng tăng của nguồn lực con người - lợi thế cạnh tranh động trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện cho việc thay đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ nhưng chất lượng thấp sang sự phát triển dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Chìa khóa của sự chuyển đổi, nhân tố trung tâm của quá trình này là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chiến lược 2011 - 2020 xác định: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xét đến cùng, đây là khâu quan trọng nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Thực hiện tốt đột phá này sẽ làm tăng sức mạnh mềm của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng - một quan điểm quan trọng mà Đại hội XI đã xác định.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy quốc gia nào xây dựng và phát huy tốt nguồn lực con người thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn. Những năm qua, chúng ta đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều bất cập, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề không hợp lý. Chúng ta đang thiếu cả cán bộ quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp; thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao. Đây là những trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Chiến lược nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển nguồn nhân lực vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài theo tiến trình phát triển của tri thức nhân loại. Trong 5 năm tới, phải tập trung chỉ đạo xây dựng và triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Điều này thể hiện tính hướng đích của sự phát triển khoa học, công nghệ, bảo đảm chuyển tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, Chính phủ sẽ đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học công nghệ; hướng trọng tâm hoạt động khoa học công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ưu tiên sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh.

3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng tính hiệu quả nhờ quy mô. Trong những năm qua, chúng ta đã huy động nhiều nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo trên các vùng miền của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, lạc hậu, việc quy hoạch xây dựng lại không đồng bộ, đầu tư dàn trải, khả năng kết nối các loại hình vận tải, kết nối giữa các vùng trong nước và với các tuyến vận tải quốc tế còn hạn chế. Quy mô kinh tế ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc lộ những bất cập trong kết cấu hạ tầng nước ta, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và là một trong những điểm nghẽn tăng trưởng. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: Xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một khâu đột phá.

Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai dự án.
Cần xây dựng quy hoạch theo sự phân bố lực lượng sản xuất và bố trí dân cư gắn với quá trình đô thị hoá trên tầm nhìn cả nước. Nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng ở các địa phương là rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, quyết định của chúng ta không thể dựa vào lòng mong muốn mà phải lựa chọn cái tốt nhất có thể nhằm giải tỏa nhanh các điểm nghẽn vận tải, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong thời gian ngắn nhất. Trên tinh thần đó, việc phát triển kết cấu hạ tầng giai đoạn 2011 - 2015 sẽ thực hiện theo định hướng sau:
Thứ nhất, tập trung đầu tư tuyến đường bộ Bắc - Nam. Ưu tiên phát triển hệ thống giao thông ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng trưởng, kết nối với các vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh, thúc đẩy tăng trưởng của cả nước. Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của 3 cảng biển lớn ở 3 khu vực: Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu và Miền Trung; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn. Gắn việc phát triển kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn với chương trình xây dựng nông thôn mới; quan tâm giải quyết những yêu cầu bức xúc về sản xuất, lưu thông hàng hóa, đi lại, phòng chống lũ quét trên địa bàn miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
Thứ hai, tập trung nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng các đô thị lớn gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân cư. Phát triển nhanh hệ thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Tập trung giải quyết nạn ùn tắc và úng ngập ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, phát triển nhanh hệ thống nguồn và truyền tải điện đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất nước và đời sống nhân dân.
Thứ tư, phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ. Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tàu thuyền để giảm nhẹ thiệt hại cho nhân dân. Hiện đại hoá ngành thông tin - truyền thông và hạ tầng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần nâng cao năng suất lao động.
Chính phủ sẽ tập trung hơn nữa hoàn thiện cơ chế, chính sách đầu tư trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực, các quy định về thủ tục đầu tư và mua sắm công. Phải huy động ngày càng nhiều đầu tư của xã hội cho phát triển kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh xã hội hóa việc đầu tư, thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện các phương thức đầu tư hiệu quả như xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT), nhất là phương thức hợp tác công - tư (PPP), đồng thời tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế xây dựng các cơ chế, chính sách mới phù hợp, đồng bộ để phát triển hạ tầng.
Đổi mới quy trình và thủ tục đầu tư nhằm vừa đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án vừa tăng cường chất lượng thiết kế thi công, tăng cường công tác giám sát, bảo đảm chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư đi đôi với việc nâng cao năng lực của các đơn vị trong nước.
*
* *
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo đúng vai trò nhân dân là chủ nhân của quá trình phát triển, nhất định chúng ta sẽ thực hiện tốt ba đột phá chiến lược, tạo tiền đề có tính quyết định thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
Nguồn: VPC

Monday 8 August 2011

HƯỚNG DẪN THỦ TỤC CÔNG BỐ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA ĐƯỢC CHẤP NHẬN NGAY TỪ LẦN ĐẦU TIÊN?

Câu hỏi: 
Hiện tại, công ty tôi mới đi vào sản xuất, bắt đầu đưa ra những sản phẩm đầu tiên, chúng tôi đang cần làm thủ tục đăng ký công bố tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm của mình (sản phẩm bóng điện chiếu sáng). Vậy kính mong ông Ninh Văn Hiệu - Chuyên gia tư vấn hướng dẫn giúp chúng tôi biết hồ sơ công bố tiêu chuẩn sản phẩm cần chuẩn bị những gì? Thủ tục công bố tiêu chuẩn như thế nào? Liên hệ làm việc với cơ quan  nào?

Chuyên gia tư vấn Ninh Văn Hiệu trả lời:
Căn cứ theo Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa số 05 /2007/QH12 ngày 21/11/2007, Điều 5  quy định nguyên tắc: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá Việt Nam.
1. Người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hoá hoặc một trong các phương tiện sau đây:
a) Bao bì hàng hoá;
b) Nhãn hàng hoá;
c) Tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hoá.
2. Nội dung của tiêu chuẩn công bố áp dụng không được trái với yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành.
 
VỀ TRÌNH TỰ VÀ THỦ TỤC CÔNG BỐ TIÊU CHUẨN
Tùy theo sản phẩm của bạn thuộc lĩnh vực nào, thuộc sự quản lý của bộ ngành nào thì thực hiện thủ tục công bố theo hướng dẫn của bộ ngành đó. Sản phẩm của Công ty bạn là bóng điện chiếu sáng thì thủ tục công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm được thực hiện theo Quyết định số 03/2006/QĐ-BKHCN ngày 10/01/2006.
Điều 5. Trình tự thực hiện công bố tiêu chuẩn
Doanh nghiệp công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hoá của mình theo các bước sau:
1. Xây dựng hoặc chấp nhận tiêu chuẩn để áp dụng.
2. Công bố tiêu chuẩn bằng "Bản công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm hàng hoá" theo mẫu quy định tại Phụ lục I của Quy định này.
Điều 6. Thủ tục công bố và tiếp nhận công bố tiêu chuẩn
1. Sau khi công bố, doanh nghiệp gửi hồ sơ công bố tiêu chuẩn đến Chi cục TCĐLCL tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Hồ sơ công bố tiêu chuẩn bao gồm:
a) Bản công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hoá;
b) Tiêu chuẩn áp dụng cho sản phẩm, hàng hoá (trừ trường hợp áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu chuẩn ngành). Nếu doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực hoặc tiêu chuẩn nước ngoài phải có bản dịch ra tiếng Việt kèm trong hồ sơ.
(Ngoài ra, bộ hồ sơ chi tiết đầy đủ bao gồm 7 loại hồ sơ, như: bản sao giấy phép đăng ký kinh doanh, kết quả thử nghiệm sản phẩm...).
2. Chi cục TCĐLCL là cơ quan đầu mối ở địa phương tiếp nhận hồ sơ công bố tiêu chuẩn của doanh nghiệp, có trách nhiệm kiểm tra tính phù hợp của tiêu chuẩn với các quy định của nhà nước.
3. Trong thời gian 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ công bố, nếu hồ sơ phù hợp với quy định, Chi cục TCĐLCL sẽ cấp phiếu tiếp nhận công bố theo mẫu quy định tại Phụ lục II của Quy định này. Trường hợp hồ sơ không phù hợp, Chi cục TCĐLCL sẽ thông báo điểm không phù hợp bằng văn bản để doanh nghiệp tiến hành khắc phục và thực hiện công bố lại. 
    Để biết thêm chi tiết về công tác chuẩn bị BỘ HỒ SƠ ĐẦY ĐỦ V/v công bố tiêu chuẩn sản phẩm, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, được cơ quan nhà nước CHẤP NHẬN NGAY từ lần nộp hồ sơ đầu tiên, đạt 100% mà không bị trả về nhiều lần, bạn hãy liên hệ trực tiếp với chuyên gia tư vấn NGAY HÔM NAYgọi số: 0989.979.434, hoặc gửi vào email: HieuISO@gmail.com
    Để biết thêm về những chia sẻ hướng dẫn bổ ích khác giúp doanh nghiệp của bạn tồn tại, vượt qua khủng hoảng, hoạt động ổn định và phát triển được tốt hơn, bạn nên XEM NGAY tại đây http://ninhvanhieu.blogspot.com


    Thursday 4 August 2011

    ISO 9001:2008 - GIẢI MÃ CÁC YÊU CẦU TỪ GÓC NHÌN CỦA CHUYÊN GIA ĐÁNH GIÁ - PHẦN II

    Với một dàn nhạc, yếu tố quyết định tạo lên sự thành công của một bản nhạc hay chính là vai trò của Nhạc trưởng. Trên một con tàu trên biển, để vượt qua bão tố phong ba, đưa con tàu đi đến được đúng bến cảng cần đến, chắc chắn phải nhắc đến vai trò cực kỳ quan trọng của Thuyền trưởng. Với doanh nghiệp, tổ chức cũng vậy, người lãnh đạo quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp hay tổ chức đó.
    Ở bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu xem ISO đánh giá vai trò của người lãnh đạo tổ chức như thế nào và đưa ra tiêu chuẩn về trách nhiệm của người lãnh đạo ra sao.

    CHƯƠNG 2.        TRÁCH NHIỆM CỦA LÃNH ĐẠO
    2.1       Cam kết của lãnh đạo
    2.1.1       Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008
    “Lãnh đạo cao nhất phải cung cấp bằng chứng về sự cam kết của mình đối với việc xây dựng và thực hiện hệ thống quản lý chất lượng và cải tiến liên tục hiệu lực của hệ thống đó bằng cách
    a)     truyền đạt cho tổ chức về tầm quan trọng của việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng cũng như các yêu cầu của luật định và chế định,
    b)     thiết lập chính sách chất lượng,
    c)     đảm bảo việc thiết lập các mục tiêu chất lượng,
    d)     tiến hành việc xem xét của lãnh đạo, và
    e)     đảm bảo sẵn có các nguồn lực.”
    2.1.2       Diễn giải và nhận xét
    Lãnh đạo cao nhất là người ra quyết định về việc triển khai HTQLCL theo ISO 9001:2008 trong tổ chức, vì vậy cam kết của lãnh đạo là yếu tố tiên quyết cho việc xây dựng và áp dụng thành công HTQLCL. Quyết định này có thể dựa trên một hoặc một số lý do như khách hàng yêu cầu, cơ quan quản lý nhà nước quy định, mong muốn tăng cường quản lý và cải tiến chất lượng sản phẩm/dịch vụ, nâng cao chất lượng các quá trình nói chung...., tuy nhiên, vì lý do gì thì lãnh đạo cao nhất cung cần duy trì sự cam kết của mình đối với việc thiết lập, thực hiện, duy trì và cải tiến HTQLCL.
    Điều khoản 5.1 này là một điều khoản chung mà các nội dung của nó được triển khai cụ thể trong các phần liên quan khác như 5.2, 5.3, 5.4. 5.5, 5.6 hay 6.1. Với việc thực hiện và đánh giá HTQLCL thì điều quan trọng nhất ở đây chính là việc tiêu chuẩn ISO 9001:2008 yêu cầu lãnh đạo cao nhất phải cung cấp bằng chứng cho sự cam kết của mình mà không chỉ dừng lại ở việc “tuyên bố” các cam kết.
    2.1.3       Hướng dẫn đánh giá
    Với đặc điểm là một yêu cầu chung, thông thường các chuyên gia đánh giá sẽ không dành một phần riêng cho việc đánh giá sự tuân thủ yêu cầu này của tiêu chuẩn. Chuyên gia đánh giá cần đảm bảo yếu tố cam kết của lãnh đạo cần được xem xét đến trong tất cả các quá trình quản lý, tạo sản phẩm và hỗ trợ trong tổ chức ở các khía cạnh như mục đích và quan điểm triển khai quá trình, nhận thức của người thực hiện công việc, cơ chế cung cấp nguồn lực và nguồn lực được cung cấp, tiếp cận và hiệu quả trong giải quyết sự cố và các vấn đề phát sinh, cách thức và kết quả việc cải tiến thương xuyên các quá trình...
    Một cách lý tưởng, việc kết luận về sự phù hợp với các yêu cầu trong điều khoản 5.1 của ISO 9001:2008 chỉ có thể được đưa ra sau khi đã đánh giá toàn bộ HTQLCL, đặc biệt là các yêu cầu trong 5.2, 5.3, 5.4, 5.5, 5.6. Trưởng đoàn đánh giá, sau khi tổng hợp các phát hiện đánh giá, thường là người thích hợp nhất để đưa ra kết luận về sự phù hợp với yêu cầu của điều khoản này.
    Ngoài ra, người quản lý cuộc đánh giá cũng cần lưu ý đặc biệt đến việc phân công chuyên gia có năng lực thích hợp và phương pháp thực hiện việc đánh giá các quá trình định hướng (chính sách, mục tiêu, trách nhiệm và quyền hạn, cung cấp nguồn lực) và xem xét, cải tiến.
    2.2       Hướng vào khách hàng
    2.2.1       Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008
    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo rằng các yêu cầu của khách hàng được xác định và đáp ứng nhằm nâng cao sự thoả mãn khách hàng (xem 7.2.1 và 8.2.1).”
    2.2.2       Diễn giải và nhận xét
    Tiêu chuẩn ISO 9001:2008 có những yêu cầu cụ thể đối với việc xác định (7.2.1), xem xét yêu cầu của khách hàng (7.2.2), trao đổi thông tin (7.2.3), hoạch định đáp ứng (7.1) và đo lường thỏa mãn của khách hàng (8.2.1). Yêu cầu trong điều khoản 5.2 này được đưa ra với mục đích nhấn mạnh vai trò quan trọng của lãnh đạo cao nhất trong việc xác định đảm bảo xác định, đáp ứng các yêu cầu và nâng cao thỏa mãn của khách hàng.
    Trách nhiệm “đảm bảo” của lãnh đạo cao nhất có thể được thực hiện thông qua một số nội dung như:
    ·       Thiết lập các chiến lược của tổ chức hướng vào khách hàng, làm cơ sở cho triển khai các quá trình tác nghiệp,
    ·       Xem xét và phản hồi đối với cơ chế triển khai chiến lược hướng vào khách hàng đến các quá trình tác nghiệp cụ thể liên quan đến khách hàng,
    ·       Phân công trách nhiệm, quyền hạn và cung cấp nguồn lực cho các quá trình xác định, đáp ứng yêu cầu khách hàng và nâng cao thỏa mãn khách hàng,
    ·       Xem xét các kết quả đạt được trong việc xác định, đáp ứng yêu cầu và nâng cao thỏa mãn khách hàng.
    2.2.3       Hướng dẫn đánh giá
    Để xem xét mức độ thực hiện yêu cầu này của tiêu chuẩn ISO 9001:2008, chuyên gia đánh giá cần kết hợp giữa phỏng vấn lãnh đạo cấp cao với xem xét các quá trình  liên quan đến khách hàng và kết quả đạt được.
    Thông thường, chiến lược hướng và khách hàng, cách thức tiếp cận và triển khai chiến lược này trong tổ chức là một phần nội dung phỏng vấn và xem xét với lãnh đạo cấp cao trong đánh giá. Các câu hỏi về tính hiệu lực và hiệu quả của việc triển khai chiến lược hướng vào khách hàng và các quá trình cụ thể có liên quan đến khách hàng cũng giúp chuyên gia đánh giá có được nhiều thông tin về mức độ thực hiện yêu cầu trong điều khoản này.
    Việc đánh giá các quá trình cụ thể liên quan đến khách hàng được thực hiện theo trong các phần tương ứng như 7.2.1, 7.2.2, 7.2.3, 7.1, 8.2.1, với lưu ý rằng cách thức các quá trình này được thực hiện và kết quả đạt được đều có một phần liên quan đến mức độ lãnh đạo cấp cao thực hiện các trách nhiệm của mình theo yêu cầu trong điều khoản 5.2 này.
    2.3       Chính sách chất lượng
    2.3.1       Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008
    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo rằng chính sách chất lượng
    a)     phù hợp với mục đích của tổ chức,
    b)     bao gồm việc cam kết đáp ứng các yêu cầu và cải tiến liên tục hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng,
    c)     cung cấp cơ sở cho việc thiết lập và xem xét các mục tiêu chất lượng,
    d)     được truyền đạt và thấu hiểu trong tổ chức, và
    e)     được xem xét để luôn thích hợp.”
    2.3.2       Diễn giải và nhận xét
    Theo ISO 9001:2008, thiết lập và truyền đạt chính sách chất lượng (CSCL) là một trong những trách nhiệm cơ bản của lãnh đạo cao nhất trong tổ chức. Chính sách chất lượng thường được xem xét, thiết lập trên cơ sở tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị chia sẻ chung của tổ chức, đồng thời nhất quán với chiến lược sản xuất kinh doanh nói chung. Với đặc điểm này, CSCL cần được thiết lập và quản lý để nhất quán với “mục đích” của tổ chức và được xem xét đến khi có những thay đổi với các yếu tố gắn với “mục đích” của tổ chức ở trên để đảm bảo sự luôn thích hợp.
    Chính sách chất lượng thực hiện hai chức năng cơ bản trong quản lý chất lượng. Thứ nhất, nó gắn kết tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị chia sẻ chung và các chiến lược sản xuất kinh doanh với những mục tiêu chất lượng cụ thể và đo lường được. Thứ hai, CSCL hình thành nền tảng cơ bản cho nhận thức và văn hóa chất lượng trong tổ chức.
    Ở khía cạnh thứ nhất, các tuyên bố về tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị và chiến lược sản xuất kinh doanh mang tính định hướng dài hạn và tổng quát. Các tuyên bố này cần được tổ chức triển khai vào các lĩnh vực cụ thể như kinh doanh, tài chính, nhân sự, chất lượng....để làm cơ sở cho các hoạch định các hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể. Với chức năng này, CSCL phải đảm bảo đủ cụ thể và rõ ràng để làm cơ sở cho lãnh đạo cấp cao và nhân viên quản lý thiết lập mục tiêu chất lượng ở các cấp nhất quán với chính sách. Ngoài ra, với tinh thần cải tiến liên tục theo ISO 9001:2008, CSCL cũng cần thể hiện rõ cam kết này làm định hướng cho các hoạt động cải tiến HTQLCL trong quá trình thực hiện và duy trì sau này.
    Ở khía cạnh thứ hai, CSCL là một phần của nền tảng cơ bản cho nhận thức của nhân viên và văn hóa chất lượng trong tổ chức được hình thành trong quá trình tuyên truyền, trao đổi thông tin (một cách có chủ định). Các nhận viên trong toàn tổ chức cần được tuyên truyền, hiểu và chia sẻ các định hướng của tổ chức thể hiện trong CSCL. Một cách lý tưởng, CSCL dần dần sẽ góp phần điều chỉnh, một cách vô thức, các hành vi và thái độ của các thành viên trong tổ chức trong quá trình thực hiện công việc theo những định hướng chung đã được tuyên bố. Việc tuyên truyền và chia sẻ CSCL không chỉ được thực hiện thông qua các hoạt động truyền thông như phổ biến tại những nơi công cộng, đào tạo ban đầu, sẵn có trong sổ tay nhân viên..., mà quan trọng hơn, nó được thực hiện thông qua theo đuổi một cách nhất quán các định hướng này trong các quy định, thủ tục, chính sách khuyến khích-động viên, khen thưởng-kỷ luật.
    Ngoài các chức năng “đối nội” ở trên, chính sách chất lượng còn là một tài liệu mang tính “đối ngoại” nhằm đảm bảo các khách hàng, đối tác và bên quan tâm biết và chia sẻ các định hướng về chất lượng của tổ chức.
    2.3.3       Hướng dẫn đánh giá
    Đánh giá mức độ thực hiện các yêu cầu đối với CSCL trong điều khoản 5.3 thường tập trung vào các yếu tố như: sự sẵn có, cơ chế thiết lập, mức độ triển khai hai chức năng triển khai chiến lược và nâng cao nhận thức, hình thành văn hóa chất lượng. Về cách thức đánh giá, chuyên gian đánh giá nên kết hợp giữa việc xem xét với lãnh đạo cao nhất, sự triển khai mục tiêu ở các cấp/bộ phận và nhận thức của nhân viên.

    Một cách cụ thể, các nội dung sau đây thường được thực hiện nhằm xác định mức độ thực hiện các yêu cầu của điều khoản 5.3 về CSCL:
        Phỏng vấn với lãnh đạo cao nhất về cách thức, cơ sở thiết lập, xem xét, điều chỉnh CSCL, sự liên quan của CSCL với các tuyên bố về tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị và chiến lược sản xuất kinh doanh;
        Phỏng vấn với lãnh đạo cao nhất về phương pháp tổ chức sử dụng để tuyên truyền CSCL trong tổ chức và triển khai trên thực tế thông qua các mục tiêu chất lượng và quy trình/thủ tục tác nghiệp;
        Phỏng vấn lãnh đạo cao nhất về hiệu lực của quá trình truyền đạt CSCL trong tổ chức và mức độ mà tổ chức theo đuổi được các tuyên bố trong CSCL;
        Phỏng vấn và xem xét với lãnh đạo cao nhất và quản lý các cấp/bộ phận về cách thức mà CSCL được xem xét đến trong quá trình thiết lập các mục tiêu chất lượng và thực hiện các quá trình của tổ chức;
        Phỏng vấn nhân viên trong tổ chức và xem xét mức độ nhận thức của họ về CSCL và sự liên quan của CSCL với các hoạt động tác nghiệp mà họ thực hiện. So sánh kết quả này với câu trả lời từ phỏng vấn với lãnh đạo cấp cao;
        So sánh mức độ thực hiện chính sách và các mục tiêu chất lượng trên thực tế với kết quả phỏng vấn lãnh đạo cấp cao;
        Xem xét mức độ thực hiện các quy định kiểm soát tài liệu đối với CSCL.
    Thông thường, kết luận về mức độ thực hiện CSCL chỉ được đưa ra sau khi đoàn đánh giá đã hoàn thành chương trình đánh giá cho tất cả các cấp/bộ phận và quá trình trong tổ chức.
    2.4       Hoạch định
    2.4.1       Mục tiêu chất lượng
    2.4.1.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008
    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo rằng các mục tiêu chất lượng, bao gồm cả những điều cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của sản phẩm  [xem  7.1 a)], được thiết lập tại các cấp và bộ phận chức năng liên quan trong tổ chức. Mục tiêu chất lượng phải đo được và nhất quán với chính sách chất lượng.”
    2.4.1.2      Diễn giải và nhận xét
    Các mục tiêu chất lượng, được thiết lập trên cơ sở triển khai CSCL, là một công cụ triển khai chiến lược quan trọng giúp tổ chức nâng cao thỏa mãn yêu cầu khách hàng và cải tiến liên tục hiệu lực của HTQLCL.
    Để triển khai CSCL một cách đầy đủ và nhất quán, mục tiêu chất lượng cần được thiết lập tại các cấp và bộ phận thích hợp, đặc biệt là các cấp/bộ phận thực hiện những quá trình tạo sản phẩm nhằm đảm bảo có mục tiêu liên quan đến tính hiệu lực của các quá trình mang tính cơ bản của tổ chức.
    Trách nhiệm “đảm bảo” trong điều khoản này của lãnh đạo cao nhất có thể được hiểu là sự tham gia trực tiếp vào thiết lập mục tiêu chất lượng chung của tổ chức và đưa ra cơ chế cho các cấp/bộ phận thiết lập, triển khai các mục tiêu chất lượng nhất quán với chính sách và mục tiêu chung. Ở góc độ này, vai trò của lãnh đạo cấp cao là hình thành cơ chế để tổ chức có thể thiết lập được một HỆ THỐNG MỤC TIÊU CHẤT LƯỢNG mà không chỉ là các mục tiêu riêng lẻ. Hệ thống này cần đảm bảo sự thống nhất theo chiều dọc (từ trên xuống dưới) và theo chiều ngang (giữa các cấp và chức năng).
    Trong quá trình thiết lập mục tiêu chất lượng, lãnh đạo và đội ngũ quản lý của tổ chức phải trả lời hai câu hỏi, bao gồm thiết lập những mục tiêu gì và đặt các mục tiêu này ở mức độ nào. Để trả lời chế câu hỏi thứ nhất về bao nhiêu mục tiêu, về yếu tố nào, người quản lý cần một mặt xem xét đến các khía cạnh của chính sách chất lượng (hoặc mục tiêu cấp cao hơn đối với việc thiết lập các mục tiêu cấp dưới) và tình trạng thực hiện. Nói cách khác, đây là sự xem xét tổng hợp về chính sách chất lượng, các chỉ số cốt yếu của hoạt động (KPIs) và những kết quả đạt được (thường dựa trên phân tích số liệu).
    Ngoài ra, với một mục tiêu cụ thể, acid test cho các mục tiêu này là mức độ thỏa mãn nguyên tắc SMART (Cụ thể/Specific - Đo lường được/Measureable – Được thống nhất/Agreed – Khả thi/Realistic – Có khung thời gian/Timed).
    2.4.1.3      Hướng dẫn đánh giá
    Thiết lập và quản lý các mục tiêu chất lượng là một nội dung quan trọng cần được đánh giá tại các cấp/bộ phận trong tổ chức. Trong quá trình đánh giá yếu tố này, chuyên gia đánh giá thường xem xét các nội dung sau đây:
        Sự sẵn có mục tiêu chất lượng bằng văn bản ở các cấp/bộ phận thích hợp, đặc biệt là những mục tiêu liên quan đến hiệu lực của các quá trình tạo sản phẩm;
        Phỏng vấn lãnh đạo cấp cao và quản lý các cấp/bộ phận về phương pháp và cơ sở thiết lập các mục tiêu chất lượng;
        Xem xét tính cụ thể, đo lường được, thống nhất, khả thi và có khung thời gian với từng mục tiêu được thiết lập. Trong đó, tính cụ thể có thể được xem xét thông qua sự hiểu, thực hiện và đánh giá một cách nhất quán về đối tượng của mục tiêu chất lượng; tính thống nhất được xem xét thông qua sự thống nhất giữa mục tiêu chất lượng với CSCL, giữa mục tiêu cấp trên với cấp thấp hơn (và ngược lại), thống nhất giữa mục tiêu của các cấp/bộ phận có liên quan với nhau; tính “khả thi” được xem xét trên cơ sở phân tích số liệu, chỉ ra nguyên nhân và xác định được các kế hoạch hành động thích hợp (xem thêm 5.4.2);
        Xem xét với lãnh đạo cấp cao và quản lý các cấp về hiệu lực của quá trình thiết lập và quản lý mục tiêu chất lượng của các kỳ trước;
        Xem xét phương pháp triển khai, theo dõi, xem xét và điều chỉnh các mục tiêu chất lượng hoặc kế hoạch hành động (xem thêm 5.4.2, 5.6 và 8.2.3);
        Phỏng vấn và xem xét mức độ nhận thức của nhân viên ở các cấp trong tổ chức về các mục tiêu chất lượng liên quan và vai trò của họ trong thực hiện các mục tiêu này (xem thêm 6.2.2).

    2.4.2       Hoạch định hệ thống quản lý chất lượng

    2.4.2.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo
    a)     tiến hành hoạch định hệ thống quản lý chất lượng để đáp ứng các yêu cầu nêu trong 4.1 cũng như các mục tiêu chất lượng, và
    b)     tính nhất quán của hệ thống quản lý chất lượng được duy trì khi các thay đổi đối với hệ thống quản lý chất lượng được hoạch định và thực hiện.”

    2.4.2.2      Diễn giải và nhận xét

    Đối tượng của hoạch định HTQLCL bao gồm hoạch định chung cho hệ thống và hoạch định nhằm thực hiện các mục tiêu chất lượng. Kết quả của quá trình hoạch định này có ảnh hưởng quyết định đến tính đầy đủ, thích hợp và hiệu lực của HTQLCL.
    Hoạch định cho các mục tiêu chất lượng yêu cầu tổ chức phải có các biện pháp tổ chức, cung cấp nguồn lực cần thiết, phân công trách nhiệm thực hiện và các biện pháp theo dõi, xem xét. Mô hình 5T có thể được sử dụng cho việc triển khai và quản lý các mục tiêu chất lượng, bao gồm: Trao đổi thông tin, Triển khai, Theo dõi, Tổng hợp & xem xét, Thay đổi & điều chỉnh. Tính hiệu lực của hoạch định cho mục tiêu chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào việc phân tích số liệu cho hiện trạng, chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng chính cần được tác động.
    Hoạch định chung cho HTQLCL bao gồm các hoạt động được thực hiện để đáp ứng các yêu cầu a) đến f) trong điều 4.1 của tiêu chuẩn ISO 9001:2008. Các yếu tố của hoạch định chung bao gồm các dự tính về nguồn lực, trang thiết bị, phương pháp…cần thiết để đạt được các mục tiêu chất lượng và theo đuổi chính sách chất lượng. Nguyên tắc cơ bản của hoạch định chung cho HTQLCL là phân tích một cách đầy đủ các rủi ro của các sự cố đối với hoạt động, sản phẩm, dịch vụ và các giải pháp cần thiết để phòng tránh các sự cố này.
    Hoạch định chung HTQLCL có thể bao gồm các trường hợp như:
    • Thiết lập HTQLCL, bao gồm các quá trình, tổ chức, hệ thống tài liệu, nguồn lực… trong giai đoạn triển khai chương trình thiết lập và áp dụng HTQLCL theo ISO 9001:2008;
    • Mở rộng, thu hẹp phạm vi hoạt động của tổ chức;
    • Thay đổi cơ cấu tổ chức, nhân sự nhân sự chủ chốt;
    • Triển khai một quá trình quan trọng mới,
    • Xây dựng nhà xưởng, văn phòng, hệ thống kho bãi mới;
    Trong quá trình hoạch định, đặc biệt là hoạch định cho những thay đổi, tổ chức cần phân tích những thay đổi này một cách có hệ thống để xem xét sự tác động dây chuyền đến các yếu tố khác, thông qua đó có được các giải pháp duy trì được tính nhất quán của HTQLCL. Tính nhất quán bao gồm nhất quán theo chiều dọc giữa các cấp trong triển khai CSCL và nhất quán giữa các quá trình, bộ phận, yếu tố quản lý khác nhau trong hệ thống.

    2.4.2.3      Hướng dẫn đánh giá

    Để đánh giá hoạt động hoạch định HTQLCL, tiếp cận chung với chuyên gia đánh giá là phải xem xét ba yếu tố, bao gồm tiếp cận và phương pháp sử dụng cho hoạch định, kết quả (đầu ra của hoạch định), và hiệu quả của hoạch định (các kết quả đạt được).
    Với hoạch định cho mục tiêu chất lượng, chuyên gia đánh giá thường xem xét các nội dung đây:
    • Phỏng vấn lãnh đạo cấp cao, nhân sự quản lý về cơ sở cho việc lập kế hoạch nhằm thực hiện các mục tiêu chất lượng. Xem xét mối quan hệ và sự logic giữa mục tiêu cần đạt được, kết quả phân tích số liệu về thực trạng và các giải pháp, nguồn lực được đưa ra trong kế hoạch;
    • Xem xét việc phân công trách nhiệm, xác định khung thời gian thực hiện các nội dung trong kế hoạch;
    • Phỏng vấn nhân viên ở các cấp, bộ phận liên quan để xem xét nhận thức của họ về mục tiêu chất lượng, vai trò và khả năng đóng góp của họ với việc thực hiện mục tiêu (xem thêm 6.2.2);
    • Xem xét các chỉ số và phương pháp theo dõi, xem xét, đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu chất lượng và những điều chỉnh được đưa ra;
    • Xem xét các kết quả thực tế đạt được cho các mục tiêu chất lượng, các kết quả đạt được cho mục tiêu chất lượng kỳ trước (để đánh giá tính hiệu lực của quá trình thiết lập và quản lý MTCL).
    Với yêu cầu về hoạch định chung HTQLCL, chuyên gia đánh giá có thể sử dụng các yêu cầu a) đến f) trong điều khoản 4.1 như những điểm kiểm tra trong quá trình đánh giá. Trong quá trình sử dụng các yêu cầu trong điều khoản 4.1, cần luôn xem xét việc hoạch định và kết quả, hiệu quả hoạch định với chính sách, thỏa mãn khách hàng (mục đích) và phòng ngừa rủi ro (tiếp cận).
    Để kiểm tra khả năng duy trì sự nhất quán của HTQLCL khi hoạch định và/hoặc thực hiện các thay đổi, đánh giá viên có thể phỏng vấn các bộ phận liên quan về cách tiếp cận (thường là tiếp cận đa chức năng) trong lập kế hoạch và triển khai. Ngoài ra, việc kiểm tra thông tin về kết quả đạt được sau khi thực hiện các thay đổi trong quá khứ cũng giúp đánh giá viên xác định được tính hiệu lực việc duy trì sự nhất quán của hệ thống khi có thay đổi.

    2.5       Trách nhiệm quyền hạn và trao đổi thông tin

    2.5.1       Trách nhiệm và quyền hạn

    2.5.1.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo các trách nhiệm và quyền hạn được xác định và thông báo trong tổ chức”

    2.5.1.2      Diễn giải và nhận xét

    Xác định một cách rõ ràng, đầy đủ, nhất quán trách nhiệm và quyền hạn, một trong những đối tượng cơ bản của việc tiêu chuẩn hóa theo ISO 9000, giúp hình thành các “hành lang” để mỗi thành viên trong tổ chức có thể thực hiện công việc một cách cách có trách nhiệm và chịu trách nhiệm với kết quả.
    Quá trình này cần đảm bảo mỗi quá trình, hoạt động trong HTQLCL có người chịu trách nhiệm, tránh những khoảng trống hoặc sự chồng chéo trong phân công trách nhiệm. Các trách nhiệm và quyền hạn cần xác định và phân công không chỉ cho các công việc diễn ra trong điều kiện bình thường, mà còn đặc biệt cần thiết với các tình huống bất thường, bao gồm các tình huống khẩn cấp. (xem thêm 4.1)
    Kết quả đầu ra của quá trình xác định và phân công trách nhiệm, quyền hạn, tùy trong từng trường hợp, có thể là các ma trận trách nhiệm, mô tả công việc, hay quy chế tổ chức.
    Trong quá trình phân tích công việc và xác định các trách nhiệm, quyền hạn, tổ chức cần đảm bảo việc xác định mối quan hệ giữa các quyền hạn và trách nhiệm thực hiện công việc được giao. Việc trao quyền hạn phải tương ứng với phân công trách nhiệm. Ngoài ra, mối quan hệ giữa trách nhiệm thực hiện các công việc và quyền hạn tương ứng của các công vệc có liên quan cũng cần được xác định và trao đổi trong tổ chức nhằm đảm bảo sự thông suốt của thông tin và tính liên tục của các quá trình.

    2.5.1.3      Hướng dẫn đánh giá

    Để xác định tính hiệu lực của việc xác định và trao đổi thông tin về trách nhiệm, quyền hạn trong tổ chức, chuyên gia đánh giá cần kết hợp xem xét cơ chế và tiếp cận của tổ chức trong việc phân công trách nhiệm và trao quyền hạn với xem  xét thực tiễn với những tình huống và trường hợp cụ thể.
    Ở góc độ quản lý chung, chuyên gia đánh giá có thể phỏng vấn lãnh đạo cấp cao và nhân viên quản lý trong tổ chức về cách tiếp cận, cơ chế, công cụ được sử dụng cho việc xác định trách nhiệm và quyền hạn và trao đổi thông tin liên quan.
    Để xác định mức độ triển khai việc xác định và phân công trách nhiệm, quyền hạn trên thực tế, chuyên gia đánh giá có thể xem xét các thông tin, tài liệu về phân công chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm theo các cấp từ trên xuống dưới, từ bộ phận xuống cá nhân để biết được tính thỏa đáng (đầy đủ) và nhất quán trong triển khai chức năng. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá các quá trình cụ thể, những nội dung sau có thể được trao đổi, xem xét:
    • Công việc này do ai thực hiện? Ai chịu trách nhiệm về việc đạt được hay không đạt được yêu cầu A (nào đó)?
    • Ai là người chịu trách nhiệm đối với công việc tiếp theo? Hoặc với công việc trước đó?
    Trong quá trình thực hiện công việc có thể gặp các trường hợp bất thường nào? Khi đó thì cần phải báo cáo cho ai có quyền hạn xử lý?

    2.5.2       Đại diện của lãnh đạo

    2.5.2.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Lãnh đạo cao nhất phải chỉ định một thành viên trong ban lãnh đạo của tổ chức, ngoài các trách nhiệm khác, phải có trách nhiệm và quyền hạn sau
    a)     đảm bảo các quá trình cần thiết của hệ thống quản lý chất lượng được thiết lập, thực hiện và duy trì;
    b)     báo cáo cho lãnh đạo cao nhất về kết quả hoạt động của hệ thống quản lý chất lượng và về mọi nhu cầu cải tiến, và
    c)     đảm bảo thúc đẩy toàn bộ tổ chức nhận thức được các yêu cầu của khách hàng.”

    2.5.2.2      Diễn giải và nhận xét

    Với việc triển khai chức năng quản lý chất lượng một cách hệ thống theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo rằng trách nhiệm chung về xây dựng, duy trì, cải tiến HTQLCL này và thúc đẩy nhận thức chung về chất lượng và thỏa mãn khách hàng được phân công một cách rõ ràng và hiệu quả cho một thành viên của ban lãnh đạo. Trong ISO 9001:2008, vị trí này được gọi là Đại diện lãnh đạo về chất lượng (QMR). Nói một cách khác, QMR có vai trò quản lý Hệ thống quản lý chất lượng của tổ chức. Điều này cũng tương tự như việc phân công một thành viên trong ban lãnh đạo phụ trách các lĩnh vực khác như nhân sự, hành chính, tài chính hay thị trường.
    Thông thường, các trách nhiệm liên quan đến chức năng quản lý HTQLCL bao gồm:
    • Điều phối, giám sát và thúc đẩy việc xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL và các quá trình của HTQLCL, trong đó có hoạt động đánh giá nội bộ (xem thêm 8.2.2) và xem xét HTQLCL (xem thêm 5.6),
    • Tổng hợp và báo cáo về tình hình thực hiện HTQLCL, tính hiệu lực, hiệu quả, các nhu cầu cải tiến và cung cấp nguồn lực,
    • Thúc đẩy nhận thức về chất lượng và thỏa mãn yêu cầu khách hàng trong tổ chức,
    • Xây dựng và đề xuất các kế hoạch & mục tiêu quản lý chất lượng ngắn hạn, trung hạn của tổ chức,
    • Liên hệ và trao đổi thông tin với các đối tác bên ngoài liên quan đến việc duy trì và cải tiến HTQLCL, bao gồm tổ chức chứng nhận, tổ chức tư vấn, đào tạo,...,
    • Trực tiếp quản lý và phát triển nhóm đánh giá nội bộ và năng lực về quản lý chất lượng của các nhân sự chủ chốt trong HTQLCL. (xem thêm 6.2.2)
    Tùy vào đặc điểm riêng của mỗi đơn vị mà vị trí này có thể là Trường phòng/Giám đốc quản lý chất lượng, Trưởng phòng đảm bảo chất lượng, Phó (tổng) giám đốc phụ trách chất lượng, trực tiếp (Tổng) Giám đốc hoặc một thành viên thích hợp khác trong ban lãnh đạo.
    Cần lưu ý rằng vai trò và chức năng của vị trí này không giống với Trưởng phòng QC/KCS, và vì vậy, nếu lãnh đạo cao nhất chỉ định vị trí này là QMR thì cần đảm bảo làm rõ sự khác biệt về các vài trò và chức năng được bổ sung cho Đại diện lãnh đạo về chất lượng. Trong mọi trường hợp, tổ chức nên có quy định rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn của QMR được ban hành cùng với quyết định/thư chỉ định. Về hình thức, quy định này có thể là một bản mô tả công việc của QMR hay là một phần của quy định về chức năng nhiệm vụ của Ban/Nhóm ISO.... (xem thêm 5.5.1)

    2.5.2.3      Hướng dẫn đánh giá

    Việc đánh giá sự phù hợp và hiệu lực đối với yêu cầu của điều khoản 5.5.2, thông thường, yêu cầu chuyên gia đánh giá nội bộ xem xét với lãnh đạo cao nhất, với QMR và kết quả các công việc thực tế.
    Thứ nhất, khi phỏng vấn lãnh đạo cấp cao, chuyên gia đánh giá nội bộ cần xem xét đến cơ chế mà lãnh đạo cấp cao “ủy quyền” cho QMR thực hiện các trách nhiệm được phân công (xem thêm phần Diễn giải và nhận xét), cũng như cách thức để lãnh đạo cấp cao cung cấp những nguồn lực, bao gồm năng lực, và khuôn khổ để QMR có thể hoàn thành các trách nhiệm của mình. Một số bằng chứng mà chuyên gia đánh giá nội bộ có thể chờ đợi bao gồm: sơ đồ HTQLCL với vị trí của QMR được xác định và có quan hệ báo cáo trực tiếp với lãnh đạo cao nhất, bản mô tả công việc của QMR với các trách nhiệm và quyền hạn được xác định, quy chế tổ chức và hoạt động của Ban ISO (trong đó có vị trí của QMR).
    Thứ hai, trong quá trình xem xét với QMR, các nội dung dưới đây có thể hỗ trợ chuyên gia đánh giá nội bộ tìm hiểu và đánh giá sự phù hợp và mức độ hiệu lực của các hoạt động mà QMR triển khai trách nhiệm được phân công:
    • Trách nhiệm và quyền hạn của QMR bao gồm những gì? Được quy định ở đâu?
    • Kết quả hoạt động của HTQLCL được đánh giá thông qua các tiêu chí nào, được báo cáo đến lãnh đạo cao nhất ra sao?
    • Phương pháp và kết quả đạt được khi QMR triển khai các nhiệm vụ được phân công? (sử dụng các điểm nêu trong phần Diễn giải và nhận xét làm cơ sở kiểm tra)?
    Thứ ba, trong quá trình đánh giá tại các yếu tố và bộ phận khác nhau của HTQLCL, các chuyên gia đánh giá cần xem xét đến mối quan hệ giữa hoạt động của QMR và tình hình thực hiện HTQLCL của các yếu tố và bộ phận này.

    2.5.3       Trao đổi thông tin nội bộ

    2.5.3.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo thiết lập các quá trình trao đổi thông tin thích hợp trong tổ chức và có sự trao đổi thông tin về hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng.”

    2.5.3.2      Diễn giải và nhận xét

    Trao đổi thông tin nội bộ là một yếu tố quan trọng trong vận hành HTQLCL nhằm triển khai chính sách và đảm bảo hiệu lực của các quá trình, hướng đến việc đáp ứng yêu cầu và nâng cao thỏa mãn khách hàng. Đây là lý do yêu cầu về trao đổi thông tin nội bộ được đưa vào phần trách nhiệm của lãnh đạo trong tiêu chuẩn ISO 9001:2008.
    Trong HTQLCL, trao đổi thông tin nội bộ bao gồm hai nội dung: trao đổi thông tin tác nghiệp và trao đổi thông tin chiến lược (hiệu lực của HTQLCL).
    Quá trình trao đổi thông tin tác nghiệp giúp lãnh đạo doanh nghiệp trả lời câu hỏi cho sự tương tác của các quá trình, sự liên tục và hiệu quả của công việc. Nếu quá trình trao đổi thông tin tác nghiệp không được hoạch định và triển khai một cách có hiệu lực, các hoạt động tác nghiệp sẽ không thể được thực hiện, hoặc bị sai lỗi khi thực hiện (VD. thông tin về thay đổi yêu cầu sản phẩm từ khách hàng không được trao đổi một cách kịp thời và chính xác thì tổ chức có nhiều khả năng sẽ cung cấp các sản phẩm/dịch vụ không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng). Các yêu cầu của quá trình trao đổi thông tin tác nghiệp thường được các tổ chức xác định trong các quy trình tác nghiệp.
    Quá trình trao đổi thông tin chiến lược (hiệu lực của HTQLCL) gắn với các chính sách, mục tiêu, kết quả theo dõi/đo lường cho việc theo đuổi chính sách và mức độ đạt được các mục tiêu, nhằm đảm bảo sự nhất quán về mặt nhận thức, tăng cường sự tham gia của mọi người và góp phần động viên, tạo động lực cho toàn bộ nhân viên trong tổ chức. Tính hiệu lực của quá trình trao đổi thông tin chiến lược có thể không ảnh hưởng ngay đến các hoạt động tác nghiệp hằng ngày của tổ chức, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành một một trường làm việc tích cực, hình thành văn hóa chất lượng và huy động được một cách đầy đủ sự tham gia của mọi thành viên trong tổ chức. Các yêu cầu của quá trình trao đổi thông tin chiến lược thường được các tổ chức xác định trong hệ thống báo cáo và tuyên truyền thông qua hệ thống Bảng tin & Góc thông tin kết quả (Dashboard).

    2.5.3.3      Hướng dẫn đánh giá

    Với ý nghĩa là một yếu tố mang tính hệ thống, chuyên gia đánh giá nội bộ chỉ có thể đưa ra kết luận về tính hiệu lực của các quá trình trao đổi thông tin nội bộ sau khi đã hoàn thành đánh giá toàn bộ phạm vi của HTQLCL.
    Một cách cụ thể, để xem xét tính hiệu lực của các hoạt động trao đổi thông tin tác nghiệp, chuyên gia đánh giá nội bộ có thể xem xét các nội dung sau đây:
    • Xem xét với lãnh đạo cao nhất về quan điểm và tiếp cận của tổ chức trong hoạch định và thực hiện quá trình trao đổi thông tin,
    • Xem xét các đề xuất cải tiến của các bộ phận đến lãnh đạo cao nhất có liên quan đến việc trao đổi thông tin và những quyết định/hành động tiếp theo của tổ chức,
    • Đặt các câu hỏi “để thực hiện công việc, anh/chị cần những thông tin gì, đến từ đâu, vào khi nào và bằng cách nào?”, “kết quả/thông tin này cần cho ai, được chuyển đi đâu, vào khi nào và bằng cách nào?”...,
    • Xem xét kết quả phân tích sản phẩm không phù hợp, các khiếu nại khách hàng xem có các sự cố nào gắn với nguyên nhân về trao đổi thông tin,
    • Xem xét cách thức tổ chức quản lý hệ thống thông tin (xem thêm 6.3).
    Đối với hoạt động trao đổi thông tin chiến lược (về hiệu lực của HTQLCL), chuyên gia đánh giá nội bộ có thể xem xét các nội dung sau đây:
    • Xem xét với lãnh đạo cao nhất về những thông tin được cho là phản ảnh kết quả thực hiện chiến lược và hiệu lực của HTQLCL, cũng như nhu cầu của các cấp quản lý đối với các thông tin này (hình thành đầu vào cho quá trình trao đổi thông tin),
    • Xem xét với các nhân viên quản lý cấp trung gian về những thông tin gắn với hiệu lực của HTQLCL liên quan đến quá trình/bộ phận họ quản lý và cách thức các thông tin này được chia sẻ,
    • Xem xét quá trình trao đổi thông tin về chính sách, mục tiêu, kết quả thực hiện mục tiêu, kết quả đánh giá và xem xét hệ thống,
    • Xem xét các báo cáo, sự sẵn có và tính cập nhật của các thông tin trên Bảng tin/Góc thông tin kết quả,
    • Phỏng vấn nhân viên trong tổ chức về mức độ nhận thức của họ về hiệu lực của HTQLCL.

    2.6       Xem xét của lãnh đạo

    2.6.1       Khái quát

    2.6.1.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Lãnh đạo cao nhất phải định kỳ xem xét hệ thống quản lý chất lượng, để đảm bảo nó luôn thích hợp, thỏa đáng và có hiệu lực. Việc xem xét này phải đánh giá được cơ hội cải tiến và nhu cầu thay đổi đối với hệ thống quản lý chất lượng, kể cả chính sách chất lượng và các mục tiêu chất lượng.
    Hồ sơ xem xét của lãnh đạo phải được duy trì (xem 4.2.4)”

    2.6.1.2      Diễn giải và nhận xét

    Lãnh đạo cao nhất là (những) người ra quyết định về việc lựa chọn ISO 9001:2008 làm mô hình quản lý chất lượng theo hệ thống của tổ chức. Việc lựa chọn này, thông thường, có xem xét đến thực trạng, chiến lược dài hạn và các nhu cầu ngắn hạn mà tổ chức phải theo đuổi và thỏa mãn. Nói một cách khác, quyết định lựa chọn việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001:2008 lãnh đạo cao nhất đưa ra với những mục đích cụ thể. Chính vì vậy, định kỳ lãnh đạo cao nhất phải xem xét Hệ thống quản lý này có giúp tổ chức đạt được những mục đích đã đề ra trong theo đuổi chiến lược dài hạn và giải quyết các nhu cầu ngắn hạn.
    Việc xem xét này cần phải bao gồm sự thích hợp, tính thỏa đáng và mức độ hiệu lực của các yếu tố trong Hệ thống quản lý chất lượng như hoạch định chiến lược (với chính sách và mục tiêu chất lượng), hoạch định tác nghiệp (với các quy trình, quy định….), nhận thức và năng lực, việc thực hiện và kết quả đạt được. Lãnh đạo cao nhất phải đảm bảo quá trình xem xét HTQLCL hướng vào các quyết định và hành động nhằm cải tiến (sự thích hợp, tính thỏa đáng và mức độ hiệu lực) sản phẩm, quá trình và hệ thống. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào ba yếu tố cơ bản là: sự đầy đủ, chính xác và thích hợp của các thông tin đầu vào cho xem xét; quá trình xem xét, ra quyết định (cách thức, công cụ và thành phần); và cơ chế thúc đẩy triển khai các quyết định này trên thực tế.
    Cũng cần phải lưu ý rằng, quản lý chất lượng là một phần không thể tách rời của quản lý tổ chức, và vì vậy, xem xét HTQLCL là một phần không thể tách rời khỏi quá trình xem xét hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh của tổ chức nói chung (và vì vậy, chu kỳ xem xét Hệ thống quản lý chất lượng cũng cần tương thích với chu kỳ xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung). Nếu không giải quyết thích hợp mối quan hệ này, hoạt động xem xét HTQLCL sẽ kém hiệu quả, thậm chí có thể trở thành hình thức, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý nói riêng và sản xuất kinh doanh nói chung.

    2.6.1.3      Hướng dẫn đánh giá

    Xem xét Hệ thống quản lý chất lượng bởi lãnh đạo cao nhất là một yếu tố quan trọng nhất quyết định tính thích hợp, thỏa đáng và có hiệu lực của Hệ thống quản lý chất lượng. Vì vậy, chương trình đánh giá nội bộ của tổ chức phải có những chú trọng thích hợp đến nội dung này trong quá trình hoạch định, chuẩn bị, thực hiện và theo dõi tiếp theo của đánh giá nội bộ yếu tố này của Hệ thống quản lý chất lượng.
    Mặc dù ISO 9001:2008 yêu cầu tổ chức phải duy trì hồ sơ của quá trình xem xét của lãnh đạo, đánh giá nội bộ yếu tố này của HTQLCL không chì là việc xem xét hồ sơ được lưu lại của quá trình này. Để xem xét một cách đầy đủ và có thể đi đến kết luận và tính hiệu lực của hoạt động xem xét HTQLCL, chuyên gia đánh giá cần xem xét đến cách tiếp mà tổ chức sử dụng trong xem xét của lãnh đạo, quá trình thực hiện việc xem xét, và kết quả của việc xem xét.
    Trước hết, chuyên gia đánh giá nội bộ cần phỏng vấn lãnh đạo cao nhất về tiếp cận mà tổ chức sử dụng cho việc xem xét HTQLCL để xác định sự phù hợp với mục đích của các yêu cầu liên quan trong tiêu chuẩn ISO 9001:2008. Để hiệu quả, việc trong đánh giá quá trình xem xét của lãnh đạo, chuyên gia đánh giá cần đảm bảo sự liên kết của quá trình này với quá trình quản lý chính sách và mục tiêu chất lượng. Các câu hỏi như “Làm thế nào để lãnh đạo tổ chức biết được mức độ mà HTQLCL giúp theo đuổi chính sách và đạt được các mục tiêu chất lượng?”, hay “Mục đích của tổ chức trong việc áp dụng HTQLCL theo ISO 9001:2008 là gì và làm thế nào để lãnh đạo tổ chức biết các mục đích này có đạt được trong thực tế?” sẽ cung cấp cho chuyên gia đánh giá rất nhiều điều về mục đích và cách tiếp cận của lãnh đạo cao nhất trong xem xét HTQLCL.
    Một lần nữa, chuyên gia đánh giá nội bộ cần tránh việc quá tập trung vào xem xét hồ sơ được lưu trữ và cung cấp phục vụ cho đánh giá nội bộ. Trong quá trình xem xét các hồ sơ này chuyên gia đánh giá nên sử dụng các câu hỏi như “Lãnh đạo tổ chức đánh giá như thế nào về sự thích hợp của HTQLCL và khả năng thích ứng của nó với những thay đổi trong tổ chức?”, hay “Theo lãnh đạo tổ chức thì điểm hạn chế đáng quan tâm nhất hiện nay của HTQLCL là gì?”. Ngoài ra, việc liên hệ và xác nhận những thông tin thu nhận được từ xem xét hồ sơ và phỏng vẫn lãnh đạo cao nhất với thực tiễn mà chuyên gia đánh giá trải nghiệm ở các bộ phận/quá trình liên quan cũng cung cấp những cơ sở đáng tin cậy để đánh giá tính hiệu lực của quá trình xem xét HTQLCL.
    Khi xem xét đến “chu kỳ’ xem xét Hệ thống quản lý chất lượng, chuyên gia đánh giá nội bộ cần xem xét tính thích hợp và thỏa đáng của quá trình xem xét mà tổ chức đã hoạch định. Thông thường, các tổ chức được khuyến nghị là “chu kỳ” này không nên kéo dài quá 1 năm (12 tháng).  

    2.6.2       Đầu vào của việc xem xét

    2.6.2.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    Đầu vào của việc xem xét của lãnh đạo phải bao gồm thông tin về
    a)     kết quả của các cuộc đánh giá,
    b)     phản hồi của khách hàng,
    c)     việc thực hiện các quá trình và sự phù hợp của sản phẩm,
    d)     tình trạng của các hành động khắc phục và phòng ngừa,
    e)     các hành động tiếp theo từ các cuộc xem xét của lãnh đạo lần trước,
    f)      những thay đổi có thể ảnh hưởng đến hệ thống quản lý chất lượng, và
    g)     các khuyến nghị về cải tiến

    2.6.2.2      Diễn giải và nhận xét

    Để lãnh đạo cao nhất có thể xem xét một cách tổng thể cho một giai đoạn của Hệ thống quản lý chất lượng, quản lý các bộ phận và những người có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo cần thực hiện việc xem xét quá trính áp dụng những yếu tố của Hệ thống quản lý chất lượng tại bộ phận của mình, chức năng do mình phụ trách. Những kết quả tổng hợp và báo cáo này sẽ là đầu vào cho hoạt động xem xét của lãnh đạo cao nhất. Như đã phân tích trong Phần 2.6.1.1, sự hiệu quả của hoạt động xem xét Hệ thống quản lý chất lượng phụ thuộc vào sự đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy và thích hợp cho mục đích xem xét của các yếu tố đầu vào.
    Điều khoản 5.6.2 của tiêu chuẩn ISO 9001 đã chỉ ra một cách rõ ràng những yếu tố đầu vào cần thiết (tối thiểu) cho việc xem xét của lãnh đạo. Tuy nhiên, tổ chức cũng cần hoạch định một cách cụ thể các thông tin, trách nhiệm, thời gian, cách thức tổng hợp, phân tích và báo cáo các yếu tố đầu vào này đến hoạt động xem xét của lãnh đạo. Ngoài ra, xem xét Hệ hống quản lý chất lượng được thực hiện một cách tổng thể cho cả một giai đoạn (chu kỳ xem xét), mà không phải là tập trung vào những vấn đề sự vụ cụ thể. Chính vì vậy, các thông tin đầu vào cần được tổng hợp, phân tích và trình bày ở dạng thuận lợi cho việc xem xét và ra quyết định (thông qua việc sử dụng các công cụ thống kê, phân tích hỗ trợ ra quyết định).
    Trong số các yếu tố đầu vào, “việc thực hiện quá trình” cần được lưu ý đặc biệt khi hoạch định quá trình xem xét Hệ thống quản lý chất lượng. Trong khi các yếu tố khác thường liên quan đến một bộ phận nhất định (ví dụ “kết quả của các cuộc đánh giá” liên quan đến bộ phận đảm bảo chất lượng, “phản hồi khách hàng” liên quan đến kinh doanh hoặc đảm bảo chất lượng, …) thì yếu tố này liên quan đến tất cả các bộ phận chức năng, đặc biệt là các bộ phận chức năng gắn với quá trình tạo sản phẩm. Tổ chức cần làm rõ “việc thực hiện quá trình – process performance” được hiểu như thế nào và thể hiện thông qua những thông tin gì. Thông thường, yếu tố đầu vào này chỉ thực sự rõ ràng và sẵn sàng cho xem xét khi được tổng hợp, phân tích và đánh giá dựa trên hệ thống các chỉ số hoạt động trong yếu (key performance indicator) được thiết lập cho các quá trình của tổ chức. (xem thêm 5.4.1)

    2.6.2.3      Hướng dẫn đánh giá

    Trong đánh giá theo điều khoản 5.6.2, công việc của chuyên gia đánh giá nội bộ không đơn thuẩn chỉ là kiểm tra xem lãnh đạo cao nhất của tổ chức đã xem xét đủ cả bảy (7) yếu tố đầu vào hay chưa. Quan trọng hơn, chuyên gia đánh giá nội bộ cần xem xét đến cách thức mà việc tổng hợp, phân tích, báo cáo và xem xét các yếu tố đầu vào được phân công trách nhiệm, lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát. Sự kết hợp giữa việc xem xét với lãnh đạo cao nhất (về thông tin mà lãnh đạo cao nhất nhận được, đánh giá của lãnh đạo cao nhất từ thông tin này) và xem xét với những người chịu trách nhiệm báo cáo (về thông tin mà họ tổng hợp, báo cáo và đánh giá của họ từ những thông tin này) sẽ giúp chuyên gia đánh giá có cái nhìn sát thực về tính quá trình và hiệu lực của hoạt động chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho xem xét.
    Ngoài ra, chuyên gia đánh giá nội bộ cũng cần tập trung vào mục đích của việc xem xét từng yếu tố để xác định được những yêu cầu mà đầu vào cho xem xét phải đáp ứng. Việc xác định rõ được các mục đích này sẽ giúp cho tổ chức biết được cần các thông tin gì cho mỗi yếu tố đầu vào và cần sử dụng công cụ nào để tổng hợp và phân tích thông tin. Ví dụ, nếu lãnh đạo cao nhất của tổ chức quan tâm đến kết quả các cuộc đánh giá ở khía cạnh phân bố theo các chức năng, chuyên gia đánh giá sẽ trông chờ một báo cáo thể hiện phân bố này (ở dạng một biểu đồ hình quạt hay biểu đồ Pareto chẳng hạn).

    2.6.3       Đầu ra của việc xem xét

    2.6.3.1      Trích dẫn yêu cầu của ISO 9001:2008

    “Đầu ra của việc xem xét của lãnh đạo phải bao gồm mọi quyết định và hành động liên quan đến
    a)     việc cải tiến hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng và cải tiến các quá trình của hệ thống,
    b)     việc cải tiến sản phẩm liên quan đến các yêu cầu của khách hàng, và
    c)     nhu cầu về nguồn lực.”

    2.6.3.2      Diễn giải và nhận xét

    Hoạt động xem xét Hệ thống quản lý chất lượng cần đảm bảo hướng vào các quyết định và hành động. Quá trình này chỉ được coi là có hiệu lực và đóng góp vào lợi ích của tổ chức khi đưa ra được những quyết định về tính thích hợp, thỏa đáng và hiệu lực của Hệ thống cũng như các hành động nhằm cải tiến quá trình, hiệu lực của Hệ thống, chất lượng sản phẩm, và những nhu cầu về nguồn lực. Nói một cách khác, lãnh đạo cao nhất xem xét toàn bộ các khía cạnh của Hệ thống quản lý chất lượng (xem thêm 2.6.2) và đánh giá về tình trạng của các khía cạnh này về mặt tính thích hợp, sự thỏa đáng và mức độ hiệu lực. Thông thường, tất cả các nội dung được đánh giá là chưa thích hợp, chưa thỏa đáng và/hoặc hiệu lực thấp cần được triển khai theo đuổi tiếp theo bằng hành động khắc phục, phòng ngừa hoặc cải tiến.
    Mặc dù tiêu chuẩn đề cập đến việc xem xét là trách nhiệm của lãnh đạo cao nhất, quá trình xem xét Hệ thống quản lý chất lượng là một nỗ lực đa chức năng, thường được thực hiện thông qua việc xem xét bởi một nhóm bao gồm lãnh đạo cao nhất và quản lý các cấp, bộ phận chức năng.
    Mặc dù tiêu chuẩn ISO 9001 không chỉ ra cụ thể loại hồ sơ nào trong hoạt động xem xét của lãnh đạo cần được duy trì, thông thường các quyết định và những hành động được đưa ra từ quá trình xem xét Hệ thống quản lý chất lượng được lập và duy trì hồ sơ. (xem thêm 4.2.4) Đầu ra của hoạt động xem xét có thể ở dạng một biên bản với những nội dung cần triển khai và/hoặc một kế hoạch hành động. Trong một số trường hợp, các đánh giá và quyết định này cũng có thể được thể hiện ở dạng hành động khắc phục/phòng ngừa hoặc dự án cải tiến.
    Hệ thống quản lý chất lượng là một phần của quản lý sản xuất kinh doanh và có liên quan chặt chẽ đến quản lý chiến lược của tổ chức, chính vì vậy các đầu ra của xem xét của lãnh đạo cũng cần cung cấp các đầu vào đầy đủ và kịp thời cho xem xét và những điều chỉnh đối trong chiến lược sản xuất kinh doanh. (xem thêm 5.3, và 5.4)

    2.6.3.3      Hướng dẫn đánh giá

    Trong đánh giá điều khoản 6.5.3, bằng cách kết hợp giữa xem xét hồ sơ và kết quả thực tế với phỏng vẫn lãnh đạo cao nhất và cán bộ quản lý, các chuyên gia đánh giá nội bộ có thể xem xét đến các nội dung sau đây:
    • Sự nhất quán giữa các nhận định của lãnh đạo cao nhất và nhân viên quản lý về sự thích hợp, tính thỏa đáng và mức độ hiệu lực của từng khía cạnh cũng như tổng thể Hệ thống quản lý chất lượng,
    • Sự nhất quán giữa các nhận định này với những thông tin đầu vào được cung cấp đến hoạt động xem xét,
    • Sự nhất quán giữa các hành động được cho là cần thiết để cải tiến quá trình, hệ thống và sản phẩm với những nhận định của lãnh đạo cao nhất và nhân viên quản lý,
    • Cách thức được sử dụng cho việc hoạch định, triển khai các quyết định và hành động của lãnh đạo cao nhất, (xem thêm 5.4.2; 8.5.2; 8.5.3)
    •  Sự sẵn có và đầy đủ của các hồ sơ xem xét Hệ thống quản lý chất lượng. (xem thêm 4.2.4)
    Ngoài ra, chuyên gia đánh giá cũng cần tìm hiểu và xác định những giá trị gia tăng mà hoạt động xem xét đã mang lại cho Hệ thống quản lý chất lượng nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Hãy xem những lần xem xét Hệ thống quản lý chất lượng trước đây đã mang lại lợi ích gì cho tổ chức; những gì đã được cải tiến, điều chỉnh sau khi xem xét.
    (Chuyên gia tư vấn P&Q).

    Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

     
    Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Top WordPress Themes